So sánh GATT và GATS

GATT là viết tắt của tên Hiệp định chung về Mậu dịch và Thuế quan (General Agreement on Tariffs and Trade). Đây là tổ chức đa giang sơn được xây dựng vào năm 1947 để thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc tế trải qua những chương trình đc điều hướng chung về tự do hóa kinh tế.

Tổ chức kế thừa GATT là Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Công việc của GATT tập trung vào việc thương thuyết cắt giảm thuế quan đa phương và xóa khỏi hạn ngạch tương tự những vẻ ngoài cản trở kinh tế phi thuế quan khác.

GATT cũng đã tổ chức 10 vòng đàm phán về cắt giảm thuế, bao gồm vòng đàm phán Kenedy 1962-1967, đảm bảo mức cắt giảm quan thuế bình quân 35% và gần đó là vòng đàm phán Uruguay 1986.

Trong khuôn khổ hợp tác đa phương, GATT là diễn đàn đàm phán. Trong 48 năm hoạt động, GATT trải qua 8 vòng đàm phán: vòng Giơnevơ năm 1947 đàm phán về thuế; vòng Annecy (năm 1949) đàm phán về thuế, vòng Torquay (1950- 1951) đàm phán về thuế, vòng Giơnevơ (1955- 1956) đàm phán về thuế; vòng Dillon (1961- 4962) đàm phán về thuế; vòng Kennedy (1964- 4967) đàm phán về thuế và các biện pháp chống phá giá; vòng Tôkyô (1973-1979) đàm phán về thuế, các biện pháp phi thuế quan và các hiệp định khung; vòng Uruguay (1986-1994) đàm phán về thuế, các biện pháp phi thuế quan, các nguyên tác, các dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, dệt, may mặc, nông nghiệp và việc thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Các nguyên tắc cơ bản của GATT

1.Nguyên tắc không phân biệt đối xử.

Các quy tắc của GATT được thiết kế cho nền kinh tế có định hướng thị trường thiết lập các điều kiện cạnh tranh đối với hệ thống doanh nghiệp tự do. Trong trường họp cần thiết bảo hộ, các biện pháp thuế hoặc phi thuế có thể được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử. Theo nguyên tắc này, thuế quan hay các quy định khác được áp dụng đối với hàng nhập khẩu hay xuất khẩu không phân biệt đối xử giữa các bên tham gia GATT.

– Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc

Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most favoured nation), là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt của MFN được thể hiện ngay tại Ðiều I của Hiệp định GATT (mặc dù bản thân thuật ngữ ”tối huệ quốc” không được sử dụng trong điều này).

Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác.

Nguyên tắc MFN được quy định trong trong Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch 1947 (viết tắt là GATT) áp dụng đối với ”hàng hoá”. Điều 1 của GATT đề ra các nguyên tắc then chốt của cách đối xử tối huệ quốc (MFN). Nguyên tắc làm nền tảng này của GATT sau này được mở rộng sang cả các lĩnh vực khác của thương mại ngoài việc buôn bấn hàng hoá: cả thương mại dịch vụ (GATS) và quyền sở hữu trí tuệ liên quan đén thương mại (TRIPS). Những ngoại lệ đối với quy tắc này được định nghĩa rõ ràng và nghiên cứu kỹ lưỡng, thường thì những ngoại lệ được thực hiện dưới các khoản khước từ đặc biệt (Điều XXV của GATT 1994, miễn trừ MFN trong lịch trình GATT), theo Phần IV của GATT 1994 hay còn được gọi là “Điều khoản cho phép” năm 1979 (ví dụ GSP). Lần lượt việc MFN có thể được chấp nhận đối với các liên minh thuế quan và các khu vực thương mại tự do (Điều XXIV của GATT 1994) hoặc vì sự hội nhập kinh tế (Điều V, GATS). Dưới đây sẽ giải thích cụ thể hơn.

Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng, nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác, các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác của mình.

Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: Mỗi thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác “ưu tiên nhất”. Nếu một nước dành cho một đối tác của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được “ưu tiên nhất”.

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc – MFN trong hệ thống thương mại đa phương tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cạnh tranh giữa các thành viên khi cùng vào thị trường của một thành viên nào đó.

Với sự tồn tại của nguyên tắc đối xử MFN, các quốc gia sẽ được bảo đảm rằng quốc gia đối tác thương mại của mình sẽ không dành cho quốc gia khác chế độ thương mại ưu đãi hơn, qua đó triệt tiêu lợi thế cạnh tranh tự nhiên của họ đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ cụ thể trong cạnh tranh với các quốc gia liên quan đó.

Nguyên tắc đối xử quốc gia,Một nguyên tắc then chốt khác của GATT, như đã ghi trong Điều III, là một khi ở trong biên giới, hàng hoá sẽ nhận được đối xử quốc gia (NT) giống như đối với hàng hoá nội địa khác, kể cả liên quan đến mức thuế nội địa hoặc áp dụng các quy định của quốc gia. Hơn nữa, nguyên tắc này được mở rộng sang các lĩnh vực “mới” như dịch vụ, và một số ngoại lệ trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). Tính có thể dự đoân trước và tính minh bạch là những tấc động chính của hệ thống GATT đối với các thương nhân và doanh nghiệp. Những thoả thuận ký kết và cam kết thông báo dựa vào luật lệ là phương tiện quan trọng bảo đảm rằng các điều kiện và môi trường thương mại sẽ được âp dụng bình đẳng đối với tất cả các Bên tham gia ký kết.

Nguyên tắc đối xử quốc gia là quy chế yêu cầu các quốc gia thực hiện những biện pháp nhằm đảm bảo cho sản phẩm nước ngoài và cả nhà cung cấp những sản phẩm đó được đối xử trên thị trường nội địa không kém ưu đãi hơn các sản phẩm nội địa và nhà cung cấp nội địa.

Thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia – NT trong hệ thống thương mại đa phương nhằm tạo sự bình đẳng về cơ hội cạnh tranh giữa các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài với nhà sản xuất kinh doanh trong nước.

Nguyên tắc này được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước khác những ưu đãi không kém hơn so với ưu đãi mà nước đó dang và sẽ dành cho sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp của nước mình.

Điều này có nghĩa là nước nhập khẩu không được đối xử phản biệt giữa sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp trong nước với sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp nước ngoài về thuế và các khoản lệ phí trong nước cũng như về điều kiện cạnh tranh.

Thông qua các cam kết nhượng bộ về cắt giảm thuế quan, và dựa trên nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, sản phẩm nhập khẩu từ các nước thành viên được đối xử bình đẳng với nhau trên thị trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu như nước nhập khẩu tùy tiện áp dụng thuế nội địa và các quy định mang tính phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu với sản phẩm trong nước nhằm mục dích bảo hộ ngành sản xuất trong nước thì hiệu quả của việc tự do hóa thương mại kể trên sẽ không còn ý nghĩa. Chính vì thế hai nguyên tắc này được áp dụng kết hợp nhằm bảo đảm điều kiện canh tranh bình đẳng không chỉ giữa sản phẩm nhập khẩu từ các nước thành viên mà còn giữa sản phẩm nhập khẩu với sản phẩm nội địa của nước nhập khẩu. Cũng với lí do đó mà hai nguyên tắc này được coi là hòn đá tảng của GATT/WTO nhằm thực hiện mục tiêu không phân biệt đối xử và tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên.

2. Nguyên tắc mở cửa thị trường.

Nguyên tắc “mở cửa thị trường” hay còn gọi là “tiếp cận” thị trường (market access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa.

Về mặt chính trị, “tiếp cận thị trường” thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương mại của WTO. Về mặt pháp lý, “tiếp cận thị trường” thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận khi đàm phán ra nhập WTO.

Mở cửa thị trường được thực hiện thông qua các cam kết về :

– Cấm áp dụng các biện pháp về hạn chế số lượng

– Giảm và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan;

– Xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan

3. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng

Cạnh tranh công bằng (fair competition) được hiểu là thương mại quốc tế được tiến hành trong những điều kiện cạnh tranh bình đẳng như nhau.

Nguyên tắc này được công nhận trong án lệ của vụ U ruguay kiện 15 nước phát triển (1962) về việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau đối với cùng một mặt hàng nhập khẩu. Do tính chất nghiêm trọng của vụ kiện, Đại hội đồng GATT đã phải thành lập một nhóm công tác (Working group) để xem xét vụ này. Nhóm công tác đã cho kết luận rằng, về mặt pháp lý việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau đối với cùng một mặt hàng không với các quy định của GATT, nhưng việc áp đặt các mức thuế khác nhau này đã làm đảo lộn những “điều kiện cạnh tranh công bằng” mà U ruguay có quyền “mong đợi” từ phía những nước phát triển và đã gây thiệt hại cho lợi ích thương mại của U ruguay.

Trên cơ sở kết luận của Nhóm công tác, Đại hội đồng GATT đã thông qua khuyến nghị các nước phát triển có liên quan “đàm phán” với U ruguay để thay đổi các cam kết và nhân nhượng thuế quan trước đó. Vụ kiện của U ruguay đã tạo ra một tiền lệ mới, nhìn chung có lợi cho các nước đang phát triển. Từ nay các nước phát triển có thể bị kiện ngay cả khi về mặt pháp lý không vi phạm bất kỳ điều khoản nào trong hiệp định GATT nếu những nước này có những hành vi trái với nguyên tắc “cạnh tranh công bằng”.

4. Nguyên tắc minh bạch

Minh bạch là nguyên tắc quan trọng của WTO nhằm đảm bảo điều kiện thuận lợi cho tự do hóa thương mại quốc tế. Minh bạch cho phép các nhà nhập khẩu, cung cấp sản phẩm, dịch vụ,…có khả năng dự đoán trước về hệ thống pháp lý và chính sách về thương mại của các nước thành viên, cũng như phát hiện sớm các vi phạm quy định của WTO.

Minh bạch bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh.

GATS là “Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (tiếng Anh: General Agreement on Trade in Services, viết tắt là GATS) là một hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiệp định được ký kết sau khi kết thúc Vòng đàm phán Uruguay và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Hiệp định được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không chỉ điều chỉnh một mình lĩnh vực thương mại hàng hóa như trước đó.”

Tất cả các thành viên của WTO đều tham gia GATS và các nguyên tắc cơ bản của WTO về đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia cũng đều áp dụng với GATS.

Đối với khái niệm dịch vụ, GATS không đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh song lại mô tả dịch vụ theo phương thức cung ứng dịch vụ. Các dịch vụ thuộc đối tượng điều chỉnh của GATS chỉ là các dịch vụ được đưa ra trên cơ sở cạnh tranh và loại trừ khỏi phạm vi áp dụng của mình những dịch vụ được cung ứng để thi hành thẩm quyền của chính phủ.

Các nguyên tắc chung của thương mại dịch vụ – GATS

WTO đã ban hành Hiệp định chung 203 / WTO / VB về Thương mại Dịch vụ GATS. Trong hiệp định này, các nguyên tắc chung đối với thương mại dịch vụ – GATS được quy định như sau:

Thứ nhất: Về nguyên tắc đối xử tối huệ quốc

Đối với các biện pháp được quy định trong Hiệp định này, mỗi Thành viên sẽ dành ngay lập tức và vô điều kiện cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác đối xử không kém thuận lợi hơn của bất kỳ Thành viên nào khác. so với các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ quốc gia nào khác.

Các Thành viên có quyền duy trì một biện pháp không phù hợp với khoản 1 của Điều này với điều kiện là biện pháp đó được liệt kê và đáp ứng các điều kiện của Phụ lục trong những trường hợp ngoại lệ. tỷ lệ cho Điều II.

Không có nội dung nào trong Thỏa thuận này sẽ được sử dụng để ngăn cản bất kỳ Thành viên nào dành cho các nước láng giềng những lợi thế để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi các dịch vụ được tạo ra và tiêu dùng trong nước. giới hạn lãnh thổ của nó. khu vực biên giới.

Thứ hai: Đảm bảo tính minh bạch

Các Thành viên sẽ công bố tất cả các biện pháp liên quan hoặc ảnh hưởng đến hoạt động của Hiệp định này và sẽ công bố các biện pháp đó trước khi có hiệu lực, trừ trường hợp khẩn cấp. Các Hiệp định Quốc tế liên quan hoặc ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ mà các Thành viên là thành viên cũng sẽ được công bố.

Trường hợp không thể công bố các biện pháp cưỡng chế thì các thông tin đó phải được công bố theo cách khác.

Các thành viên phải thông báo ít nhất mỗi năm một lần, thông báo cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ về luật mới hoặc bất kỳ sửa đổi nào đối với luật, quy định hoặc hướng dẫn hành chính. có ảnh hưởng quan trọng đến thương mại dịch vụ được quy định trong các cam kết cụ thể của Hiệp định này.

Một Thành viên phải nhanh chóng trả lời bất kỳ yêu cầu nào của bất kỳ Thành viên nào khác về thông tin cụ thể liên quan đến các biện pháp áp dụng chung hoặc các thỏa thuận quốc tế.

Mỗi Thành viên cũng sẽ thiết lập một hoặc nhiều điểm cung cấp thông tin cụ thể theo yêu cầu của các Thành viên còn lại về các vấn đề nêu trên cũng như các đối tượng thuộc diện yêu cầu thông báo theo quy định. Các địa điểm này sẽ được thành lập trong vòng hai năm kể từ ngày Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực (sau đây gọi là “Hiệp định WTO”).

Mỗi Thành viên là nước đang phát triển có thể đồng ý một khoảng thời gian linh hoạt thích hợp cho việc thiết lập các điểm thông tin đó. Điểm thông tin không nhất thiết phải là nơi lưu trữ các văn bản quy phạm pháp luật.

Bất kỳ thành viên nào cũng có thể thông báo cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ về bất kỳ biện pháp nào được thực hiện bởi Thành viên khác ảnh hưởng đến việc thực hiện Hiệp định này.

Các nguyên tắc chung của thương mại dịch vụ – GATS

Thứ ba: Không tiết lộ thông tin bí mật

Thỏa thuận này không yêu cầu bất kỳ Thành viên nào cung cấp thông tin bí mật vì việc tiết lộ thông tin đó sẽ cản trở việc thực thi pháp luật hoặc trái với lợi ích công cộng, làm phương hại đến lợi ích thương mại hợp pháp của họ. các doanh nghiệp, cho dù nhà nước hay tư nhân.

Thứ tư: Về hội nhập kinh tế

Không có nội dung nào trong Hiệp định này ngăn cản bất kỳ Thành viên nào tham gia hoặc ký kết Hiệp định về tự do hóa thương mại dịch vụ giữa hai hoặc nhiều Thành viên, với điều kiện là thỏa thuận đó:

Phạm vi thực chất và không quy định hoặc loại bỏ tất cả sự phân biệt đối xử giữa hai hoặc nhiều bên, theo tinh thần của Điều XVII thông qua việc loại bỏ các biện pháp hoặc lệnh cấm phân biệt đối xử hiện có. các biện pháp phân biệt đối xử mới hoặc bổ sung, cho dù tại thời điểm hiệp định có hiệu lực hoặc trên cơ sở một mốc thời gian hợp lý, ngoài những biện pháp được cho phép theo các Điều XI, XII, XIV và Xe buýt.

Khi đánh giá xem các điều kiện trên có được đáp ứng hay không, có thể xem xét mối quan hệ giữa hiệp định với quá trình hội nhập kinh tế hoặc tự do hóa thương mại giữa các nước có liên quan.

Trong trường hợp các nước đang phát triển là thành viên của hiệp định, có thể xem xét linh hoạt để phù hợp với trình độ phát triển của các nước liên quan, cả về tổng thể, từng lĩnh vực và phân ngành. khu vực.

Trong trường hợp hiệp định chỉ liên quan đến các nước đang phát triển, đối xử thuận lợi hơn có thể được dành cho pháp nhân thuộc sở hữu hoặc kiểm soát của các thể nhân thuộc các bên của hiệp định này.

Bất kỳ thỏa thuận nào nêu tại khoản 1, Điều 5 của Hiệp định GATS sẽ được thiết kế để tạo thuận lợi cho thương mại giữa các Bên của Hiệp định và sẽ không tạo ra mức độ cản trở chung cao hơn mức áp dụng trước đây. Hiệp định. thỏa thuận đó được ký kết trong thương mại dịch vụ với bất kỳ bên nào không phải là Bên, cho dù trong lĩnh vực dịch vụ hay trong một phân ngành.

Khi ký kết, gia hạn hoặc sửa đổi về cơ bản bất kỳ thỏa thuận nào, một Thành viên dự định rút lại hoặc sửa đổi một cam kết cụ thể trái với các cam kết được nêu trong Biểu của mình, Thành viên đó phải thông báo ít nhất 90 ngày trước khi rút lại hoặc sửa đổi, và các thủ tục được quy định trong các khoản 2, 3 và 4 của Điều XXI sẽ được áp dụng.

Nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác là pháp nhân được thành lập theo luật của một Bên ký kết sẽ được hưởng sự đối xử theo Thỏa thuận nói trên, với điều kiện nhà cung cấp dịch vụ đó có hoạt động kinh doanh đáng kể trên lãnh thổ của các Bên của Thỏa thuận này.

Các Thành viên là các Bên của bất kỳ thỏa thuận nào phải thông báo ngay cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ về thỏa thuận đó và về bất kỳ sự gia hạn hoặc bất kỳ sửa đổi quan trọng nào đối với thỏa thuận này. dịch vụ. Theo yêu cầu của Hội đồng, các Thành viên đó phải nhanh chóng cung cấp các thông tin liên quan. Hội đồng có thể thành lập một nhóm làm việc để xem xét thỏa thuận này hoặc việc gia hạn hoặc sửa đổi và báo cáo cho Hội đồng về việc tuân thủ Điều khoản này.

Thành viên là các bên của bất kỳ thỏa thuận nào nêu tại khoản 1 được thực hiện trên cơ sở lịch trình, Thành viên đó sẽ báo cáo định kỳ cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ về việc thực hiện thỏa thuận. ở trên. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng có thể thành lập Tổ công tác để xem xét các báo cáo đó.

Một Thành viên là một bên của bất kỳ thỏa thuận nào nêu tại khoản 1, Điều 5 của Hiệp định GAST về hội nhập kinh tế không được yêu cầu bồi thường cho các lợi ích thương mại mà bất kỳ Thành viên nào khác thu được. . từ thỏa thuận đó.

Thứ năm: Các hiệp định về hội nhập thị trường lao động

Không có nội dung nào trong Hiệp định này ngăn cản bất kỳ Thành viên nào trở thành một bên của thỏa thuận thiết lập một thị trường lao động tích hợp đầy đủ giữa các Bên của thỏa thuận, với điều kiện thỏa thuận đó:

Miễn các yêu cầu về cư trú và giấy phép lao động cho công dân của các bên tham gia hiệp định và phải được thông báo cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ. ”

 

TTS Cẩm Vân – Kim Thuỷ ( Luật Kinh tế )

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon