Bí mật cá nhân, quyền riêng tư, bí mật gia đình pháp luật bảo hộ?

Các Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được bộ luật dân sự năm 2015 quy định như thế nào?

Điều 39 của Bộ luật dân sự 2015 có quy định:

“1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

Quyền riêng tư là quyền của cá nhân được tự quyết đối với đời sống của mình mà không chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ những người xung quanh khác. Với quyền này, cá nhân được sống như mong muốn của mình mà không chịu ảnh hưởng, tác động bởi bất kỳ chủ thể nào khác; Còn “bí mật cá nhân, bí mật gia đình ” là những thông tin, tư liệu mà cá nhân không muốn công khai, bộc bạch, được giữ kín bằng các biện pháp thông thường hoặc biện pháp kỹ thuật khác nhau.

Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Nếu có ai xâm phạm đến quyền này thì người có quyền bị xâm phạm có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước can thiệp, bảo vệ.

  1. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Như vậy, việc sử dụng, thu thập, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của người khác thì phải được người đó đồng ý. Việc thu thập, sử dụng thông tin liên quan đến bí mật gia đình thì phải được tất cả các thành viên trong gia đình đồng ý.

Quy định này hoàn toàn phù hợp với mọi cá nhân trong đời sống, xã hội, thể hiện được sự tôn trọng của pháp luật đối với đời sổng riêng tư, bí mật đời tư của cá nhân.

Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên của gia đình đồng ý.

luat dan du quy dinh ve bi mat
Bí mật cá nhân được pháp luật quy định như thế nào?
  1. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân thường chứa đựng các bí mật đời tư của cá nhân, do đó, những tài liệu này phải được bảo đảm an toàn và bảo mật. Chính vì vậy, pháp luật quy định việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

  1. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, đặc biệt là với những hợp đồng liên quan đến dịch vụ khám chữa bệnh, thẩm mỹ, tư vấn pháp lý (Ví dụ: ly hôn…) là những dịch vụ mang tính chất nhạy cảm, bản thân người sử dụng dịch vụ có thể phải cung cấp thông tin về đời sống riêng tư, bí mật của mình. Tuy nhiên, nếu các bên trong hợp đồng có thỏa thuận khác với quy định này thì ưu tiên áp dụng sự thỏa thuận của các bên.

Điều 39 của Bộ luật dân sự 2015 có quy định:

“1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

Quyền riêng tư là quyền của cá nhân được tự quyết đối với đời sống của mình mà không chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ những người xung quanh khác. Với quyền này, cá nhân được sống như mong muốn của mình mà không chịu ảnh hưởng, tác động bởi bất kỳ chủ thể nào khác; Còn “bí mật cá nhân, bí mật gia đình ” là những thông tin, tư liệu mà cá nhân không muốn công khai, bộc bạch, được giữ kín bằng các biện pháp thông thường hoặc biện pháp kỹ thuật khác nhau.

Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Nếu có ai xâm phạm đến quyền này thì người có quyền bị xâm phạm có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước can thiệp, bảo vệ.

  1. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Như vậy, việc sử dụng, thu thập, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của người khác thì phải được người đó đồng ý. Việc thu thập, sử dụng thông tin liên quan đến bí mật gia đình thì phải được tất cả các thành viên trong gia đình đồng ý.

Quy định này hoàn toàn phù hợp với mọi cá nhân trong đời sống, xã hội, thể hiện được sự tôn trọng của pháp luật đối với đời sổng riêng tư, bí mật đời tư của cá nhân.

Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên của gia đình đồng ý.

  1. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân thường chứa đựng các bí mật đời tư của cá nhân, do đó, những tài liệu này phải được bảo đảm an toàn và bảo mật. Chính vì vậy, pháp luật quy định việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.

  1. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, đặc biệt là với những hợp đồng liên quan đến dịch vụ khám chữa bệnh, thẩm mỹ, tư vấn pháp lý (Ví dụ: ly hôn…) là những dịch vụ mang tính chất nhạy cảm, bản thân người sử dụng dịch vụ có thể phải cung cấp thông tin về đời sống riêng tư, bí mật của mình. Tuy nhiên, nếu các bên trong hợp đồng có thỏa thuận khác với quy định này thì ưu tiên áp dụng sự thỏa thuận của các bên.

TTS Phạm Thái Bình – Trường Kinh Tế Luật

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon